HỘI MÃ SỐ MÃ VẠCH VIỆT NAM

Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam

Thứ Tư, 17 - 12 - 2025 | 6:32 chiều

Liên hệ: maymediavn@gmail.com

MÃ SỐ SÁCH QUỐC TẾ ISBN – MỐI QUAN HỆ VỚI MÃ SỐ MÃ VẠCH

Mr Quang
Chưa phân loại

MÃ SỐ SÁCH QUỐC TẾ ISBN – MỐI QUAN HỆ VỚI MÃ SỐ MÃ VẠCH

Tác giả: TS. Nguyễn Đăng Quang – Nguyên Phó Tổng giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Ủy viên Hội đồng MSMV quốc gia Chuyên gia ISBN và MSMV. Người đầu tiên của Việt Nam setup hệ thống ISBN cho toàn quốc. Người đầu tiên áp dụng MSMV cho sách ở Việt Nam Người đầu tiên áp dụng ISBN cho sách ở Việt Nam

Sự ra đời của ISBN 10

Từ giữa thế kỷ XX, ngành xuất bản trên thế giới tăng trưởng mạnh mẽ. Số lượng sách mỗi ngày một tăng, khiến cho việc quản lý sách ngày một phức tạp. Người ta bắt đầu nghĩ đến việc định danh cho các cuốn sách, không phải bằng tên sách, tên tác giả, tên nhà xuất bản… mà mỗi cuốn sách sẽ mang một mã số riêng, một ID, không cuốn nào trùng với cuốn nào. Năm 1966, hệ thống mã số sách được tạo ở Anh tên gọi là mã số tiêu chuẩn cho sách – Standard Book Numbering. Ban đầu, nó được sủ dụng ở nước Anh, nhưng ngay sau đó, nhiều nước khác thấy lợi ích của nó và áp dụng. Năm 1970 được các nước công nhận và gọi là mã số tiêu chuẩn sách quốc tế – International Standard Books Number ISBN.

Hệ thống này có 10 con số. Cấu trúc của hệ thống này như sau:

  1. Mã nước hay mã ngôn ngữ,
  2. Mã của nhà xuất bản, nhà phát hành,
  3. Mã của cuốn sách,
  4. Số kiểm tra.

Các phần khác nhau có độ dài khác nhau và thường nối với nhau bằng các gạch ngang hoặc dấu cách.

Mã nước (hay mã ngôn ngữ) 0 và 1 được dùng cho các nước dùng tiếng Anh; 2 cho các nước dùng tiếng Pháp; 3 cho tiếng Đức v.v…Mã nước có thể tới 5 chữ số, ví dụ 99936 cho Bhutan.

Mã của nhà xuất bản do cơ quan ISBN của nước đó quy định.

Mã của cuốn sách do nhà xuất bản tự đặt.

Số cuối cùng là số kiểm tra. Số kiểm tra được tính toán theo phép chia cho 11 với các trọng số từ 10 đến 2, sử dụng X thay cho 10 trong trường hợp 10 là số kiểm tra. Điều này có nghĩa là mỗi số trong 9 số đầu tiên của chuỗi ISBN với 10 con số  – ngoại trừ số kiểm tra – được nhân với các số theo trật tự từ 10 đến 2 và lấy tổng của các phép nhân này, cộng thêm với số kiểm tra, phải chia hết cho 11.

Ví dụ, tính số kiểm tra cho chuỗi số ISBN 10 số mà 9 chữ số đầu tiên là 0-306-40615 được thực hiện như sau:

10×0 + 9×3 + 8×0 + 7×6 + 6×4 + 5×0 + 4×6 + 3×1 + 2×5
= 0 + 27 + 0 + 42 + 24 + 0 + 24 + 3 + 10
= 130
Số nhỏ nhất cần thêm vào để có thể chia hết cho 11 là 2, do 132/11 = 12 và không có dư.

Vì thế số kiểm tra là 2, và chuỗi số hoàn chỉnh là ISBN 0-306-40615-2.

Và cũng trong suốt một thời gian dài từ cuối thế kỷ 20 cho tới thập kỷ đầu của thế kỷ 21, hệ thống xuất bản sách của Việt Nam cũng chưa gia nhập hệ thống ISBN thế giới. Khi đó, sách của Việt Nam không có mã ISBN. Nhiều nhà xuất bản gặp rất nhiều khó khăn trong việc hợp tác với các nước trên thế giới trong lĩnh vực xuất bản; hoặc thậm chí đơn giản là đưa sách ra nước ngoài, xuất khẩu sách Việt Nam ra nước ngoài. Các nhà sách lớn trên thế giới, các hệ thống phát hành sách trên thế giới từ chối sách Việt Nam, chỉ vì một lý do: Sách Việt Nam không có mã ISBN.

Sự hình thành của Mã số mã vạch

Song song với việc hình thành hệ thống mã số cho sách, hệ thống mã số cho hàng hóa nói chung cũng được đặt ra.

Cũng từ những thập kỷ 60 của thế kỷ trước, hàng hóa bán trên thị trường chưa có mã. Nó được đặt tên bởi chính người sản xuất ra nó. Thí dụ, gói Trà Ô long loại 1, gói 100 g… Càng ngày, sản phẩm càng được đa dạng hóa, việc quản lý sản phẩm theo tên gọi với hàng nghìn, hàng vạn sản phẩm trong một cửa hàng trở nên khó khăn, người ta phải nghĩ đến chuyện tự động hóa chuyện nhận dạng sản phẩm, đặt ID cho từng sản phẩm. Và mã số ra đời. Một công ty sản xuất ra một vạn sản phẩm khác nhau, người ta đặt cho nó mã số, từ 00000 đến 99999, mỗi sản phẩm mang một mã số.

Đến khâu lưu thông, sự việc phức tạp hơn. Tại một siêu thị, có thể có hàng ngàn nhà cung cấp, mỗi nhà cung cấp lại có một hệ thống mã khác nhau thì rất khó. Lúc bây giờ trên thế giới người ta đã phải thống nhất với nhau bởi một hệ mã số chung. Hiệp hội mã số Châu Âu (European Article Numbering Association – EAN) đã thống nhất được cách đặt mã số cho tất cả các loại hàng hóa ở tất cả các nước trong một hệ thống mã số thống nhất. Rồi khi máy vi tính ra đời, người ta cũng nhanh chóng nghĩ ra cách chuyển dãy số đó thành dãy mã vạch, để có thể dùng máy đọc tự động đọc mã vạch cho trở thành dãy mã số. Các cô thu ngân ở siêu thị chỉ cần giơ máy đọc mã vạch, tít một cái là máy sẽ chuyển ngay từ hệ thống vạch thành dãy 13 số, và qua hệ thống mạng, biết ngay đó là hàng hóa gì, giá bao nhiêu.

Cơ quan quản lý hệ thống mã số mã vạch này của quốc tế là GS1. Tháng 5 năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập hệ thống mã số mã vạch quốc tế này, và cơ quan GS1 Việt Nam – Trung tâm Mã số mã vạch quốc gia của Việt Nam, trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng có trách nhiệm quản lý và cấp phát mã số mã vạch theo chuẩn GS1 này với đầu số 893.Tháng 5/1995, GS1 được công nhận là thành viên chính thức của GS1 quốc tế. GS1 Việt Nam là đại diện hất Vậy bí quyết của hệ thống đó là như thế nào?

Tất cả chỉ gom lại trong 13 con số, được phân bổ một cách khoa học cho tất cả các nước, tất cả các loại hàng hóa trên toàn thế giới, mỗi loại hàng hóa có một mã riêng, như số căn cước công dân, hoặc số ID.

2 hoặc 3 con số đầu tiên chỉ tên nước sản xuất ra sản phẩm đó. Ví dụ 888 là Singapore, 50 là Vương quốc Anh, 46 là Nga, 690-692 là Trung Quốc, 893 là Việt Nam…

Mấy con số tiếp theo chỉ mã của công ty sản xuất ra sản phẩm đó. Thí dụ Nhà xuất bản Giáo dục có mã là 4980. Các số còn lại chỉ mã của từng sản phẩm, và số cuối cùng là số kiểm tra.

Với quy định trong hệ thống như thế này, tất cả các sản phẩm trên thế giới này sẽ được định mã sản phẩm, như mã ID cho từng sản phẩm mà không lo sản phẩm này trùng mã với sản phẩm khác, kể cả trong phạm vi toàn thế giới.

Mỗi nhà sản xuất chỉ cần định danh mã cho từng sản phẩm với 13 con số, dùng phần mềm tạo mã vạch có sẵn miễn phí, trong nháy mắt là tạo được mã vạch EAN13 cho sản phẩm đó.

Bước chuyển từ ISBN 10 sang ISBN 13

Trong suốt một thời gian dài từ khi thành lập hệ thống ISBN cho tới hết thế kỉ 20, hệ thống này vẫn là 10 con số dưới dạng số. Muốn vào mã, phải gõ bằng tay đủ 10 con số, vừa chậm lại rất dễ nhầm lẫn. Trong khi đó, hệ thống mã số mã vạch theo chuẩn EAN 13 với việc đọc tự động bằng máy đọc mã vạch đã trở nên quá phổ biến và thuận tiện. Các nhà quản lý ISBN mới nghĩ ra một “mẹo”: nếu thêm 3 con số nào đó vào đằng trước dãy 10 con số, là thành 13 con số, lúc đó có thể đọc tự động bằng máy đọc. Và năm 2006, tổ chức ISBN quốc tế đề nghị với tổ chức EAN cho lắp thêm tiền tố ba chữ số 978 lên trước hệ thống mã số 10 con số của ISBN là có đủ 13 con số, có thể chuyển thành mã vạch in luôn trên các cuốn sách, để có thể tự động hóa việc đọc mã như hệ thống mã EAN13. Thỏa thuận giữa tổ chức ISBN quốc tế và tổ chức EAN quốc tế được thực hiện bằng một hợp đồng trị giá tượng trưng 1 đô la. Và thế hệ ISBN mới, ISBN13 ra đời, áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, có tích hợp với mã vạch, có thể tạo mã vạch bằng phần mềm tạo mã vạch theo chuẩn EAN13, và có thể đọc mã vạch bằng các máy đọc mã vạch thông thường ở các siêu thị. Từ  lúc đó, cô thu ngân ở cửa hàng sách cũng có thể dùng máy đọc mã vạch để đọc mã ISBN 13 chữ số này.

Nguyên tắc đặt mã của hệ thống này như sau:

3 con số đầu tiên là thành tố đầu của sách, tức là 978 (sau này thêm số 979 nữa).

1, 2 hoặc 3 con số tiếp theo là mã quốc gia. Mã quốc gia của Việt Nam là 604.

1 hoặc 2 hoặc 3 con số tiếp theo là mã của nhà xuất bản. Mã của Nhà xuất bản Giáo dục là số 0.

Các con số tiếp theo là mã của từng cuốn sách và cuối cùng là số kiểm tra.

Từ khi có hệ thống ISBN này ra đời, các nhà xuất bản tại Việt Nam không cần phải dùng hệ thống mã 893 nữa, mà dùng luôn hệ thống mã ISBN, với mã đầu là 978 604…, thí dụ sách của Nhà xuất bản Giáo dục VN sẽ có mã là 978 6040…

Ta hình dung một cách đơn giản, mã ISBN như số căn cước, số ID của một cuốn sách, trong phạm vi quốc tế, cũng giống như mã EAN13, như số căn cước, số ID của một loại hàng hóa, trong phạm vi quốc tế.

Thời gian vừa qua, cũng có nhà xuất bản đưa sách ra nước ngoài, hải quan do chưa biết rõ chi tiết về ISBN, cứ hỏi là hàng hóa Việt Nam tại sao không có mã 893….và không cho qua cửa hải quan. Các bạn ấy không biết rằng có mã ISBN đầu 978604 thì không cần phải hệ thống mã 893 nữa.

Việc sử dụng ISBN cũng đã được đưa vào luật. Luật Xuất bản năm 2012, điều 27 cũng quy định tất cả các sách xuất bản tại Việt Nam đều phải ghi mã số ISBN.

Mã số ISBN 13 tích hợp mã vạch như trên vừa nói cũng đã được thể hiện chi tiết tại thông tư 05/2016/TT- BTTTT của Bộ Thông tin và truyền thông ban hành năm 2016. Thông tư này cũng quy định chi tiết và cụ thể về vị trí, màu sắc, kích thước của mã.

Cũng theo thông tư này, mã ISBN dùng cả cho sách điện tử. Tuy nhiên, tại Việt Nam rất ít sách điện tử được gắn mã này.

Tại Trung Quốc, toàn bộ sách được xuất bản cũng đều được gắn mã ISBN 13. Ngành thuế căn cứ theo mã này, có đầu 978 là sách để tính mức thuế ưu đãi cho sách.

Hiện các loại mã này có thể đọc bằng máy đọc mã vạch, hoặc cũng có thể bằng các app trên điện thoại thông minh. Nhiều điện thoại thông minh bây giờ thậm chí không cần cài app, mở Zalo là cũng đọc được, hoặc không cần Zalo, chỉ cần chức năng chụp ảnh là cũng “đọc” được mã.

Việc quản lý hệ thống mã này tại Việt Nam:

Về bản chất, các mã này giống như số căn cước công dân, số passport, cho nên các hệ thống mã này cũng được quản lý chặt chẽ cả trong nước cũng như trên tầm quốc tế. Tại Việt Nam, việc quản lý cũng được giao cho các cơ quan có trách nhiệm. Cơ quan quản lý hệ thống ISBN tại Việt Nam là Cục Xuất bản, In và Phát hành, số 10 Đường Thành, Hà Nội. Cục Xuất bản, In và Phát hành có trách nhiệm cấp, quản lý và thu hồi mã số ISBN,  quy hoạch việc phân bổ nguồn mã số ISBN ở Việt Nam, báo cáo về tình hình sử dụng mã số ISBN của Việt Nam với tổ chức ISBN quốc tế và đóng phí hàng năm. Hiện nay Cục Xuất bản, In và Phát hành vẫn đang cấp mã số ISBN miễn phí cho các nhà xuất bản. Tại Mỹ, việc cấp ISBN là mất phí, 125 USD cho một mã đơn lẻ, 295 USD cho 10 mã.

Tại Việt Nam, do sự hiểu biết về ISBN chưa đầy đủ nên đã có những sai lầm. Có một lần, một nhà xuất bản đưa sách đi ra nước ngoài tham dự hội chợ sách quốc tế. Hải quan cửa khẩu kiểm tra sách, không thấy có mã hàng hóa 8 9 3…. Họ bảo rằng tất cả mọi hàng hóa (kể cả sách) sản xuất tại Việt Nam phải được mang mã 893…, nên không cho số sách đó ra khỏi Việt Nam!

Có lẽ những kiến thức về ISBN chưa được nhiều người biết nên còn có nhiều hiểu biết sai lệch.

Công ty luật Minh Khuê còn giải thích sai cả bản chất của ISBN. Tại trang web của công ty https://luatminhkhue.vn/ma-so-dinh-danh-cua-cac-loai-sach-isbn-la-gi.aspx có giải thích: “ Mã số ISBN 13 chữ số được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có chức năng riêng:

– Nhóm mã quốc gia (1 chữ số):

+ Xác định quốc gia hoặc khu vực xuất bản sách.

+ Đối với Việt Nam, mã quốc gia là 978”.

Giải thích như vậy sai về bản chất.

Có trang web Tân Hưng Hà https://tanhungha.com.vn/isbn-international-standard-book-number-cua-mot-quyen-sach-la-gi-n1503.html?srsltid=AfmBOorpIdzkbOdcZn9U5_1E55bGwFiPIpNrUCs6tchvDHhupOqRVPk- còn hướng dẫn người dùng cách lấy ISBN cho tác giả tự xuất bản sách như sau: “1. Mua ISBN trực tiếp từ trang web chính thức của cơ quan cấp ISBN tại quốc gia của bạn. 2. Sử dụng nền tảng tự xuất bản sách cung cấp ISBN như một phần trong gói dịch vụ của họ” ???….. cũng sai luôn.

Câu chuyện đưa hệ thống ISBN vào Việt Nam cũng khá ly kỳ.

Từ trước năm 2007, Việt Nam chưa gia nhập hệ thống ISBN quốc tế. Vì vậy, nhiều nhà xuất bản gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa sách ra nước ngoài. Các nhà sách lớn trên thế giới, các hệ thống phát hành sách trên thế giới từ chối sách Việt Nam, chỉ vì một lý do: Sách Việt Nam không có mã ISBN.

Sau khi tổ chức ISBN quốc tế đã cải tiến để trở thành ISBN13, họ cũng rà lại các nước chưa gia nhập ISBN quốc tế, thấy có tên Việt Nam. Họ chủ động mời Việt Nam tham dự, và mời chính phủ Việt Nam cử một đại diện đến tổ chức ISBN quốc tế để trao đổi về việc đó. Về mặt tổ chức, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý việc xuất bản tại Việt Nam là Cục Xuất bản. Ông Nguyễn Kiểm, Cục trưởng Cục Xuất bản được cử đi, với tinh thần là chấp nhận việc gia nhập này. Thủ tục cũng đơn giản, phải nộp lệ phí, cũng đơn giản, hình như có chưa đầy ba trăm đô la. Ông Kiểm nộp luôn, họ bảo chúng tôi đã cấp mã quốc gia cho Việt Nam là 604 đó, và họ giao cho một chồng tài liệu về, tự nghiên cứu để triển khai. Lúc đó cả Việt Nam, chẳng ai biết ISBN cụ thể là như thế nào, chồng tài liệu dày cộp, lại hoàn toàn bằng tiếng Anh. Thuê một người giỏi tiếng Anh dịch, dịch xong đọc bản dịch cũng không ai hiểu gì cả. Lúc đó, ông Kiểm nhờ tiến sĩ Nguyễn Đăng Quang, nguyên Phó Tổng giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, đã về hưu, nhưng lúc đó vẫn đang là thành viên Hội đồng tư vấn mã số mã vạch Việt Nam giúp. Ông Quang vốn đã có hiểu biết về mã số mã vạch, biết tiếng Anh, xem bản dịch và xem bản chính, hóa ra là người dịch không hiểu ý nghĩa cho nên bản dịch cũng chả ra làm sao cả. Ông Quang đồng ý giúp, và cất bản dịch vào ngăn kéo, dùng luôn bản chính nghiên cứu, cùng với Cục xuất bản setup hệ thống ISBN cho Việt Nam; định ra đầu mối trong nước là hệ thống mấy chục nhà xuất bản, quy định mã của từng nhà xuất bản. Sau đó cùng với Cục xuất bản tổ chức các lớp tập huấn về ISBN và sớm đưa hệ thống ISBN vào thực tiễn Việt Nam từ năm 2008. Từ đó, hệ thống sách của Việt Nam hòa nhập với thế giới.

Để lại bình luận của bạn

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

HỘI MÃ SỐ MÃ VẠCH VIỆT NAM

Địa chỉ: Số 50, ngõ 84, phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội
Email:  masovietnam@gmail.com

LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI